Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Những Mẹo chữa hen phế quản đơn giản hiệu quả




Những bệnh nhân bị bệnh hen phế quản là tình trạng của viêm mạn tính của phế quản gây nên phù và hẹp đường thở, gây khó thở rít. ho, tức ngực từng đợt tái diễn, thường bị tắc nghẽn đường thở có thể tự hồi phục hoặc do điều trị. Quá trình viêm này hay kèm theo tăng tính phản ứng phế quản với nhiều tác nhân kích thích gây co thắt phế quản. Hiện tượng hẹp phế quản thường hồi phục hoàn toàn hoặc ít nhất một phần với điều trị.

Các phế quản bị viêm mạn tính trở nên dễ nhạy cảm với các tác nhân gây dị ứng (đặc hiệu) hoặc những tác nhân kích thích (không đặc hiệu). Đường hô hấp trở nên "bối rối" và vẫn ở trong trạng thái nhạy cảm cao. Hiện tượng này được gọi là "phản ứng quá mức của phế quản" (BHR-Bronchial Hyperreactivity). Những người bị hen phế quản hoặc dị ứng thì thường có hiện tượng phản ứng quá mức của phế quản mạnh hơn so với những người không bị hen phế quản hoặc không bị dị ứng. Ở những người nhạy cảm, phế quản dễ bị phù (sưng) và hẹp khi tiếp xúc với các tác nhân như chất gây dị ứng, khói thuốc lá, hoặc tập thể dục. Trong số những người bị hen phế quản thì một số người có phản ứng quá mức của phế quản ở mức độ nhẹ và không có triệu chứng trong khi một số khác thì có phản ứng quá mức của phế quản ở mức độ nặng và có các triệu chứng mạn tính.

NHỮNG ĐIỀU CHƯA BIẾT VỀ HEN PHẾ QUẢN

Thế nào là phế quản bình thường?


Trước khi đánh giá hen phế quản ảnh hưởng như thế nào lên đường hô hấp thì chúng ta cần xem qua cấu trúc và chức năng của phế quản bình thường.
Không khí chúng ta thở qua mũi, miệng để vào thanh quản rồi vào khí quản. Không khí sau đó vào phổi bằng một trong hai phế quản chính (mỗi phổi có một phế quản chính). Phế quản tiếp tục phân nhánh trong phổi thành những ống nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa được gọi là tiểu phế quản. Không khí hít vào sẽ đi qua hệ thống các khí đạo (đường thở) này để đến hàng triệu túi khí nhỏ trong phổi được gọi là phế nang. Ôxy (O2) từ phế nang vào dòng máu thông qua hệ thống mạch máu rất nhỏ được gọi là mao mạch. Tương tự, các sản phẩm phế thải của cơ thể như khí carbonic (CO2) sẽ từ dòng máu vào trong phế nang và từ đó sẽ được thở ra ngoài.
Các phế quản bình thường cho phép không khí đi vào và đi ra phổi thật nhanh chóng, giúp đảm bảo nồng độ O2 và CO2 ổn định trong máu. Thành của các phế quản được bao quanh bởi lớp cơ trơn có thể co và dãn một cách tự động khi chúng ta thở. Sự co thắt và dãn nỡ của các phế quản được điều khiển bởi hai hệ thần kinh khác nhau, cùng hòa hợp hoạt động để giúp cho đường thở luôn mở.
Lớp lót bên trong của phế quản còn được gọi là lớp niêm mạc, nó chứa: (1) tuyến nhầy (tiết ra đủ chất nhầy để giúp bôi trơn đường thở); (2) các tế bào viêm như tế bào mast, tế bào lympho, bạch cầu ái toan. Các tế bào này giúp bảo vệ niêm mạc của phế quản đối với vi khuẩn, tác nhân dị ứng, chất kích thích khi được hít vào bên trong, và các tế bào này có thể làm cho mô phế quản bị sưng phù. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng các các tế bào viêm này đóng vai trò rất quan trọng trong phản ứng dị ứng.


Nguyên nhân gây bệnh hen phế quản

Các triệu chứng của hen phế quản có thể được kích hoạt và trở nên nặng nề hơn bởi nhiều tác nhân. Không phải tất cả những người bị hen phế quản đều bị phản ứng với cùng một tác nhân. Ngoài ra, ảnh hưởng của các tác nhân này lên phổi cũng khác nhau ở mỗi người. Nói chung, độ nặng của các triệu chứng hen phế quản phụ thuộc vào việc có bao nhiêu tác nhân kích hoạt nên các triệu chứng và phổi của bạn nhạy cảm như thế nào đối với chúng.
Các tác nhân có thể được chia làm 2 nhóm:
Tác nhân dị ứng:
Phấn hoa theo mùa
Bụi, nấm mốc, vật nuôi, các thành phần của côn trùng
Thực phẩm như cá, trứng, đậu phộng, sữa bò, đậu nành
Các chất phụ gia như sulfite
Các tác nhân có liên quan đến công việc như chất latex
Khoảng 80% trẻ em và 50% người lớn bị hen phế quản đều có dị ứng.
Tác nhân kích thích:
Nhiễm trùng hô hấp: chẳng hạn như cảm cúm, viêm phế quản, viêm xoang
Thuốc: Như aspirin, các thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) khác, thuốc ức chế thụ thể beta (thường được dùng để điều trị cao huyết áp và một số bệnh tim)
Hút thuốc lá
Các yếu tố ngoài môi trường như khói, thay đổi thời tiết, mùi diesel
Các yếu tố trong nhà như nước sơn, bột giặt, khử mùi, hóa chất, nước hoa
Ban đêm
Bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản (GERD)
Tập thể dục: ví dụ như trong điều kiện lạnh và khô
Các yếu tố liên quan đến công việc như hóa chất, bụi, gas, kim loại
Các yếu tố cảm xúc: cười, khóc, hò hét, đau buồn...
Các yếu tố liên quan đến nội tiết tố (hormon): VD như hội chứng tiền mãn kinh
Việc có nhiều tác nhân tiềm ẩn giải thích vì sao hen phế quản có thể khởi phát theo nhiều cách khác nhau. Nhưng trong đa số các trường hợp thì nó thường khởi phát trong độ tuổi từ 2 đến 6. Trong độ tuổi này thì thì hen phế quản thường có liên quan đến việc tiếp xúc với các tác nhân dị ứng như bụi, khói thuốc và nhiễm siêu vi đường hô hấp. Ở những trẻ dưới 2 tuổi thì khó chẩn đoán hen phế quản một cách chắc chắn. Thở khò khè ở độ tuổi này có thể theo sau tình trạng nhiễm siêu vi đường hô hấp và thường biến mất sau đó mà không dẫn đến bệnh hen phế quản. Tuy nhiên hen phế quản có thể khởi phát trở lại vào độ tuổi trưởng thành. Hen phế quản khởi phát ở người lớn thì thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn, hầu hết vào độ tuổi trung niên và thường theo sau một tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp. Tác nhân kích thích đối với nhóm này về bản chất là thường không phải do dị ứng.



Hen phế quản do dị ứng (ngoại lai) và hen phế quản không do dị ứng (nội tại) là gì?
Bác sĩ có thể đề cập đến bệnh hen phế quản là "ngoại lai" hay "nội tại". Việc hiểu rõ hơn về bản chất của hen phế quản có thể giúp giải thích về sự khác biệt giữa chúng.
Hen phế quản "ngoại lai"(do dị ứng) thì phổ biến hơn (90%) và thường khởi phát khi còn là trẻ con. Có 80% trong số trẻ em bị hen phế quản được ghi nhận là có hiện tượng dị ứng. Tiền sử gia đình có người bị dị ứng và những trẻ này thường có thêm các dị ứng ở nơi khác như dị ứng mũi, chàm. Hen phế quản do dị ứng thường thuyên giảm khi bắt đầu đến tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, có khoảng 75% trường hợp thì hen phế quản xuất hiện trở lại.
Hen phế quản "nội tại"(không do dị ứng) chiếm khoảng 10% trường hợp, thường khởi phát sau 30 tuổi và không có liên quan đến dị ứng. Loại này liên quan đến phụ nữ nhiều hơn và trong nhiều trường hợp thường theo sau tình trạng nhiễm trùng hô hấp. Loại hen phế quản này thường khó điều trị, các triệu chứng diễn tiến mạn tính và xuất hiện quanh năm.

Biến chứng của bệnh hen phế quản
Hen phế quản làm hẹp đường thở, và ảnh hưởng đến việc di chuyển không khí vào và ra phổi. Hen phế quản chỉ ảnh hưởng đến phế quản mà không ảnh hưởng đến phế nang và mô phổi. Hiện tượng chích hẹp phế quản là do ba yếu tố chính: viêm, co thắt phế quản và phản ứng quá mức.
Viêm: Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hẹp lòng phế quản là hiện tượng viêm. Phế quản sẽ bị đỏ, kích thích, phù. Phản ứng viêm xuất hiện là để đáp ứng đối với sự hiện diện của các tác nhân dị ứng hoặc chất kích thích. Phản ứng viêm là do tác động của các hóa chất trung gian như histamine, leukotrienes, và các chất khác. Các mô bị viêm sẽ tiết ra quá mức các chất nhầy vào trong lòng phế quản. Các chất nhầy sẽ kết hợp với nhau để tạo thành những nút nhầy có thể làm nghẹt các phế quản nhỏ (tiểu phế quản). Các tế bào viêm sẽ đến tích tụ và làm tổn thương mô tế bào. Các tế bào bị tổn thương sau đó sẽ bị bong tróc vào bên trong và góp phần gây nên hiện tượng hẹp đường thở.
Co thắt phế quản: Cơ bao bọc xung quanh phế quản bị co thắt trong cơn hen phế quản. Hiện tượng co thắt các cơ ở đường thở được gọi là co thắt phế quản. Hiện tượng co thắt phế quản làm cho đường thở càng bị hẹp hơn. Các hóa chất trung gian và dây thần kinh đã làm cho các cơ này co thắt lại.
Phản ứng quá mức (Quá mẫn cảm): Ở bệnh nhân bị hen phế quản, đường thở bị co thắt và viêm mạn tính trở nên nhạy cảm hơn, phản ứng mạnh hơn đối với các tác nhân gây dị ứng, chất kích thích, nhiễm trùng. Việc tiếp xúc với các tác nhân này có thể làm cho đường thở bị viêm và hẹp nhiều hơn.
Sự phối hợp của các yếu tố trên gây nên hiện tượng khó thở ở thì thở ra. Kết quả là không khí cần phải được thở ra thật mạnh để có thể đi qua chổ hẹp, do đó tạo nên tiếng khò khè hay tiếng rít.. Người bị hen phế quản thường bị ho để có thể tống các nút nhầy trong phế quản ra ngoài. Sự suy giảm lưu thông không khí làm cho ít ôxy đi vào trong máu, và nếu nặng thì có thể khí carbonic (CO2) sẽ tích tụ nguy hiểm trong máu.
Tầm quan trọng của hiện tượng viêm?
Viêm hay phù là một đáp ứng bình thường của cơ thể đối với hiện tượng chấn thương hoặc nhiễm trùng. Dòng máu và các tế bào viêm đổ dồn về vùng đang bị ảnh hưởng. Quá trình chữa lành vết thương bắt đầu. Khi quá trình chữa lành vết thương hoàn tất thì phản ứng viêm sẽ lắng xuống. Đôi khi quá trình chữa lành vết thương gây nên sẹo. Tuy nhiên, vấn đề trung tâm trong hen phế quản là quá trình viêm không thể tự nó giải quyết được vấn đề. Trong khoảng thời gian ngắn thì nó sẽ gây ra các cơn hen phế quản tái diễn. Về lâu dài thì quá trình viêm có thể làm cho thành phế quản bị dầy lên và được gọi là hiện tượng tái cấu trúc phế quản. Nếu điều này xuất hiện thì hiện tượng hẹp lòng phế quản sẽ trở nên không hồi phục và kém đáp ứng với thuốc. Do đó, mục đích điều trị hen phế quản là: (1) Về ngắn hạn là kiểm soát hiện tượng viêm để làm giảm phản ứng của phế quản và (2) Về lâu dài là ngăn chặn hiện tượng tái cấu trúc ở phế quản.
Các triệu chứng của hen phế quản

Các triệu chứng của hen phế quản thì biểu hiện khác nhau ở mỗi người và trên cùng một người chúng cũng biểu hiện khác nhau tùy theo từng thời điểm. Điều quan trọng cần nhớ là phần nhiều trong số các triệu chứng này thì chỉ biểu hiện phảng phất và có thể tương tự với các bệnh lý khác. Tất cả các triệu chứng được đề cập dưới đây có thể gặp ở các bệnh lý hô hấp và thỉnh thoảng có thể gặp ở những bệnh lý tại tim.
Sau đây là 4 triệu chứng thường thấy nhất:
Thở nhanh (Thở ngắn):Đặc biệt là có kèm gắng sức hoặc vào buổi tối.
Thở khò khè:nghe có tiếng rít khi thở ra
Ho:Có thể kéo dài, thường nhiều vào ban đêm và sáng sớm, có thể xuất hiện sau khi tập thể dục, hoặc khi tiếp xúc với không khí lạnh và khô.
Nặng ngực:Có thể xuất hiện đi kèm hoặc không đi kèm với các triệu chứng trên.
Hen phế quản được phân loại dựa vào tần suất và độ nặng của triệu chứng, hay của cơn hen phế quản, và dựa vào kết quả xét nghiệm chức năng phổi:
30% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ nhẹ, không liên tục (ít hơn 2 đợt hen trong một tuần) và những xét nghiệm về chức năng thở bình thường.
30% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ nhẹ, dai dẳng (2 đợt hay nhiều hơn trong một tuần) và chức năng thở bình thường hoặc bất thường.
40% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ từ trung bình đến nặng, dai dẳng (mỗi ngày hoặc liên tục) và chức năng thở bất thường.
Cơn hen phế quản cấp tính là gì?
Cơn hen phế quản cấp tính (hay đột ngột) thường do tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc nhiễm trùng hô hấp trên. Độ nặng của cơn hen tùy thuộc vào việc cơn hen của bạn được kiểm soát tốt như thế nào (điều này phản ánh tình trạng viêm đường hô hấp được kiểm soát tốt như thế nào). Cơn hen phế quản cấp tính có thể đe dọa mạng sống bởi vì nó có thể tiếp tục diễn tiến dù cho có sử dụng thuốc tác dụng nhanh (thuốc dãn phế quản dạng hít). Hen phế quản không đáp ứng với điều trị bằng đường hít thì nên được theo dõi chặt chẽ tại phòng cấp cứu của bệnh viện. Các cơn hen phế quản không tự dừng lại khi không được điều trị. Nếu bạn bỏ qua các triệu chứng cảnh báo sớm (tiền triệu) thì có nghĩa là bạn tự đặt mình vào nguy cơ bị khởi phát "trạng thái suyễn" (status asthmaticus).
Các cơn hen phế quản kéo dài không đáp ứng điều trị với thuốc dãn phế quản là một cấp cứu nội khoa. Bác sĩ lâm sàng gọi các cơn hen nặng này là "trạng thái suyễn" và cần được săn sóc khẩn cấp.
Các triệu chứng của hen phế quản nặng là:
Ho dai dẳng
Không có khả năng nói thành câu hoàn chỉnh
Không thể đi bộ mà không bị thở nhanh.
Ngực cảm thấy bị bóp chặt
Môi có thể xanh tái
Cảm thấy hồi hộp, không có khả năng tập trung.
Bạn có thể khom vai, ngồi hoặc đứng để có thể thở dễ dàng hơn.
Các cơ vùng bụng và cổ co kéo. Đây là những dấu hiệu cảnh báo tình trạng suy hô hấp.
Vào thời điểm này thì các thuốc dãn phế quản đường hít khó có thể giúp hồi phục. Thông khí cơ học (thở máy) có thể cần thiết để trợ giúp cho các cơ hô hấp. Có thể điều trị bằng mặt nạ dưỡng khí hoặc đặt ống nội khí quản qua đường miệng hoặc mũi. Việc trợ giúp hô hấp này chỉ là tạm thời và được sẽ được tháo bỏ một khi cơn hen dịu đi và phổi hồi phục đầy đủ để có thể tiếp tục thực hiện chức năng hô hấp của nó. Việc nằm viện ngắn hạn trong khoa săn sóc tăng cường có thể là hậu quả của một cơn hen nặng mà không được điều trị kịp thời. Để tránh những trường hợp nhập viện như thế, tốt nhất là khi triệu chứng khởi phát thì bắt đầu điều trị ngay lập tức tại nhà hoặc tại phòng mạch bác sĩ.
Sự xuất hiện các triệu chứng ho và thở khò khè không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để đánh giá độ nặng của cơn hen phế quản. Những cơn hen rất nặng có thể gây tắc nghẽn đường thở làm cho không khí không thể đi vào hay ra khỏi phổi và do đó không tạo nên tiếng thở khò khè hay ho.


Chẩn đoán phân biệt bệnh hen phế quản

Bệnh hen cần phân biệt với một vài bệnh sau:
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường khởi phát muộn sau 40 tuổi, có tiền sử hút thuốc nhiều năm hoặc tiếp xúc với bụi khói, nhưng không có tiền sử gia đình bị hen, không có tiền sử dị ứng. Bệnh nhân có ho khạc mạn tính, khó thở khi gắng sức, đôi khi có khó thở thành cơn, có rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục.
Hen tim: bệnh nhân có hẹp van hai lá, hở động mạch chủ, suy tim trái. Triệu chứng: khó thở về đêm, nghe phổi có ran rít, ran ngáy, ran ẩm, đờm bọt hồng; chụp Xquang thấy hình ảnh tổn thương phổi tim; điều trị bằng thuốc lợi tiểu, chống suy tim thì đỡ khó thở.
Biến chứng: Hen có thể gây các biến chứng cấp tính là hen ác tính, tâm phế cấp, tràn khí màng phổi và biến chứng mạn tính gồm khí phế thũng, biến dạng lồng ngực, suy hô hấp mạn, tâm phế mạn.

Điều trị hen phế quản

Hầu hết các thuốc điều trị hen phế quản có tác động chủ yếu là giảm sự co thắt phế quản (thuốc dãn phế quản) hoặc giảm viêm (thuốc corticosteroids). Trong điều trị hen phế quản, các thuốc dạng hít nhìn chung được ưa chuộng hơn so với các thuốc dạng viên nén hoặc dạng lỏng được uống qua đường miệng. Các thuốc dạng hít tác động trực tiếp lên bề mặt và cơ của đường hô hấp, nơi mà các triệu chứng của hen phế quản bắt đầu. Sự hấp thu của các thuốc dạng hít vào các nơi khác của cơ thể là rất ít. Do đó các tác dụng phụ ít gặp hơn so với các thuốc dạng uống.
Các thuốc dạng hít bao gồm:
Thuốc đồng vận thụ thể beta-2 (beta-2 agonist)
Thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic)
Corticosteroids
Cromolyn sodium
Các thuốc dạng uống bao gồm:
Aminophylline
Thuốc đối vận leukotriene (leukotriene antagonist)
Viên nén corticosteroids
Trước đây, một trong những thuốc được sử dụng để điều trị hen phế quản là adrenaline (epinephrine). Adrenaline có cơ chế tác động nhanh trong việc mở rộng đường thở (tác dụng dãn phế quản). Nó vẫn còn được sử dụng trong các tình trạng cấp cứu của hen phế quản. Thật không may là adrenaline có nhiều tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, nhức đầu, buồn nôn, nôn, bồn chồn, hoảng loạn.
Có nhiều thuốc về mặt hóa học tương tự với adrenaline đã được bào chế. Những thuốc này được gọi là đồng vận beta-2 có tác dụng làm dãn phế quản như adrenaline nhưng không có nhiều tác dụng phụ. Thuốc đồng vận beta-2 là thuốc dãn phế quản dạng hít. Được gọi là "đồng vận" bởi vì chúng thúc đẩy những tác động của thụ thể beta-2 ở các cơ thành phế quản. Các thụ thể này có tác động làm dãn các cơ ở thành phế quản, kết quả là làm dãn phế quản. Tác động làm dãn phế quản của thuốc đồng vận beta-2 này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi hít và kéo dài khoảng 4 giờ. Các ví dụ cho nhóm thuốc này là albuterol (Ventolin, Proventil), metaproterenol (Alupent), pirbuterol acetate (Maxair) và terbutaline sulfate (Brethaire).
Các thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài đã được bào chế với thời gian tác dụng liên tục trong 12 giờ. Các thuốc dạng hít này được sử dụng 2 lần một ngày. Ví dụ cho nhóm thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài này là salmeterol xinafoate (Serevent). Các thuốc nhóm này thường không được sử dụng cho các cơn hen cấp tính và chúng có một số tác dụng phụ như lo lắng, rung, hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, hạ kali máu.
Do các thuốc đồng vận beta-2 có thể làm dãn phế quản trong khi các thuốc chẹn thụ thể beta có thể làm suy giảm sự dãn cơ ở phế quản thông qua thụ thể beta-2 và có thể làm co thắt phế quản và tình trạng hen phế quản nặng nề hơn. Do đó, nhóm thuốc chẹn beta như các thuốc điều trị cao huyết áp propanolol (Inderal) và atenolol (Tenormin) nên tránh dùng cho bệnh nhân hen phế quản.
Các thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic) tác động vào loại dây thần kinh khác so với nhóm thuốc đồng vận beta-2 để đạt được hiệu quả dãn phế quản. Hai nhóm thuốc dãn phế quản dạng hít khi được sử dụng cùng nhau có thể cho hiệu quả dãn phế quản mạnh hơn. Thuốc nhóm này thường được sử dụng là ipratropium bromide (Atrovent). Ipratropium có thời gian bắt đầu tác dụng lâu hơn nhóm đồng vận beta-2, với đỉnh tác dụng xuất hiện vào khoảng 2 giờ sau khi sử dụng và kéo dài 6 giờ. Nhóm thuốc kháng cholinergic này có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị khí phế thủng.
Khi các triệu chứng của hen phế quản khó kiểm soát bằng thuốc đồng vận beta-2 thì corticosteroids (Cortisone) thường được thêm vào. Corticosteroid có thể cải thiện chức năng phổi và làm giảm hiện tượng tắc nghẽn của phế quản. Các thuốc nhóm này bao gồm beclomethasone dipropionate (Beclovent, Beconase, Vancenase, Vanceril), triamcinolone acetonide (Azmacort) và flunisolide (Aerobid). Liều lý tưởng cho các thuốc corticosteroid này chưa rõ. Các tác dụng phụ của thuốc corticosteroid dạng hít bao gồm khàn tiếng, mất giọng, nhiễm nấm ở vùng miệng. Việc sử dụng sớm các corticosteroid dạng hít có thể giúp ngăn chặn những tổn thương không hồi phục của phế quản.
Cromolyn sodium (Intal) ngăn chặn sự phóng thích các hóa chất trung gian ở phổi như histamine, chất mà có thể gây ra cơn hen. Chính xác là cromolyn tác động như thế nào trong việc ngăn ngừa hen phế quản cần được nghiên cứu thêm. Cromolyn không phải là corticosteroid và không có tác dụng phụ đáng kể. Cromolyn là thuốc có ích trong việc ngăn ngừa hen phế quản nhưng lại có tác dụng hạn chế một khi cơn hen phế quản cấp tính khởi phát. Cromolyn có thể giúp ngăn ngừa cơn hen phế quản bị kích thích bởi tập thể dục, không khí lạnh, các tác nhân dị ứng như lông mèo. Cromolyn có thể được sử dụng ở trẻ em cũng như người lớn.
Theophylline (Theodur, Theoair, Slo-bid, Uniphyl, Theo-24), aminophylline là những ví dụ của nhóm thuốc methylxanthines. Methylxanthines có thể được sử dụng bằng đường uống và tiêm tĩnh mạch. Trước khi các thuốc dạng hít trở nên phổ biến thì methylxanthines chính là "trụ cột" trong điều trị hen phế quản. Chất caffeine có trong cafe thông thường và các loại nước giải khát cũng là một thuốc methylxanthine. Theophylline làm dãn cơ phế quản và ngăn ngừa các tế bào lót bên trong lòng phế quản (tế bào mast) phóng thích ra các hóa chất trung gian như histamine mà có thể gây ra cơn hen phế quản. Theophylline có thể hoạt động như một thuốc lợi tiểu nhẹ và làm gia tăng sự tiểu tiện. Đối với hen phế quản khó kiểm soát thì methylxanthines vẫn còn đóng một vai trò quan trọng. Liều lượng sử dụng theophylline hay aminophylline được theo dõi chặt chẽ. Nếu sử dụng liều quá mức có thể gây buồn nôn, nôn, rối loạn nhịp tim và thậm chí co giật. Trong một số trường hợp như suy tim hoặc xơ gan thì liều lượng của methylxanthines thường thấp để tránh nồng độ của nó tăng cao trong máu. Sự tương tác với các thuốc khác như cimetidine (Tagamet), thuốc chẹn kênh canxi (Procardia), quinolones (Cipro), allopurinol (Xyloprim) có thể cũng ảnh hưởng đến nồng độ của thuốc trong máu.
Thuốc corticosteroids đường uống có thể được sử dụng ở những bệnh nhân bị hen phế quản nặng không đáp ứng điều trị với các thuốc khác. Tuy nhiên, corticosteroids liều cao và sử dụng kéo dài có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng như loãng xương, gãy xương, tiểu đường (đái tháo đường), cao huyết áp, mỏng da và dễ bị bầm tím, mất ngủ, thay đổi cảm xúc và tăng cân.
Các thuốc long đờm giúp làm loãng đờm trong đường hô hấp, và từ đó làm cho nó dễ bị tống ra ngoài khi ho. Muối KI (potassium iodide) không được sử dụng phổ biến vì có thể gây nên mụn, tăng tiết nước bọt, phát ban, các vấn đề tuyến giáp. Guaifenesin (Entex, Humibid) có thể gia tăng sự sản xuất các chất dịch giúp làm loãng đờm, nhưng cũng có thể là chất kích thích đối với một số người.
Ngoài việc sử dụng các thuốc dãn phế quản cho những bệnh nhân bị hen phế quản do dị ứng thì việc tránh tiếp xúc với những tác nhân dị ứng hoặc các chất kích thích khác cũng rất quan trọng. Đối với những bệnh nhân không thể tránh tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc không thể được kiểm soát bằng thuốc thì việc tiêm phòng dị ứng cần được xem xét. Lợi ích của việc tiêm phòng dị ứng (khử mẫn cảm: desensitization) để phòng ngừa hen phế quản vẫn chưa được xác nhận rõ ràng. Một số bác sĩ vẫn còn e ngại về nguy cơ sốc phản vệ có thể xuất hiện với tỷ lệ 1/2.000.000. Tiêm phòng dị ứng mang lại lợi ích nhiều nhất ở trẻ em bị dị ứng với bụi trong nhà. Phương pháp này cũng có lợi đối với các loại dị ứng với phấn hoa và lông thú.
Ở một số bệnh nhân hen phế quản thì việc tránh sử dụng thuốc aspirin hay các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng rất quan trọng. Đây là những thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm khớp. Ở một số bệnh nhân khác thì việc điều trị bệnh lý hồi lưu (trào ngược) dạ dày - thực quản (GERD) cũng có thể giúp ngăn ngừa sự kích thích ở đường hô hấp. Các biện pháp để ngăn ngừa trào ngược vào thực quản là dùng thuốc, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, bỏ thuốc lá, cafe và rượu. Ví dụ các thuốc được sử dụng để làm giảm tình trạng này bao gồm omeprazole (Prilosec) và ranitidine (Zantac). Bệnh nhân với bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản nặng có thể gây ảnh hưởng đến phổi và cần được phẩu thuật để củng cố cơ thắt thực quản, và từ đó giúp ngăn ngừa hiện tượng trào ngược acid từ dạ dày vào thực quản.

Bài thuốc trị hen phế quản

Hen phế quản là tình trạng phản ứng cao độ ở phế quản trước nhiều kích thích khác nhau, biểu hiện đặc trưng là cơn khó thở với tiếng rít cò cử do co thắt cơ trơn phế quản, phù nề niêm mạc và tăng tiết dịch nhày phế quản. Theo y học cổ truyền, hen phế quản thuộc phạm trù “háo suyễn”, “đàm ẩm”.

Có nhiều nguyên nhân gây hen phế quản. Dựa vào nguyên nhân mà người ta chia ra các thể bệnh chính sau: hen dị ứng (atopic asthma); hen không do dị ứng (nonatopic asthma); hen do thuốc; hen do nghề nghiệp.
Cơn hen thường xuất hiện đột ngột về đêm hoặc khi thay đổi thời tiết. Triệu chứng báo trước là hắt hơi, sổ mũi, ngứa mắt hoặc đỏ mắt, ho khan vài tiếng cò cử mà người ngoài cũng nghe thấy, khó thở tăng đều dần, phải tỳ tay vào thành giường để thở, mệt mỏi, toát mồ hôi, tiếng nói ngắt quãng. Cơn khó thở kéo dài 5 - 10 phút, có khi hàng giờ, có khi cơn liên miên cả ngày không dứt, sau đó giảm dần và kết thúc là một trận ho và khạc đờm dãi. Đờm dãi màu trong quánh và dính, khạc được càng nhiều đờm càng dễ chịu. Trong cơn hen, lồng ngực căng to, mặt tím tái.


Bạch quả trị hen thể nhiệt.

Nguyên nhân gây bệnh do ngoại cảm phải ngoại tà, ăn uống tình chí thất thường, làm việc quá sức. Về tạng phủ, do sự thay đổi hoạt động của tạng phế và thận, vì thế, tuyên giáng và thận nạp khí, bệnh có liên quan mật thiết với đàm. Đàm là sản vật bệnh lý do tỳ hư không vận hóa thủy thấp, thận dương hư không ôn tỳ dương vận hóa thủy cốc và không khí hóa được nước, phế khí hư không hóa giáng thông điều thủy đạo. Trên lâm sàng thấy các hiện tượng đàm nhiều, khó thở, ngực đầy tức.
Hen có nhiều thể bệnh với các bài thuốc khác nhau như sau:
Thể hen hàn:
Triệu chứng: Thở gấp, trong hầu có tiếng hen rít, ngực bí, đờm trong loãng, miệng không khát, thích uống nóng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch phù hoạt.
Bài thuốc: xạ can 10g, tế tân 8g, ma hoàng 12g, ngũ vị tử 6g, bán hạ 6g, tử uyển 8g, đại táo 3 quả, sinh khương 3 lát, khoản đông hoa 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Thể hen nhiệt:
Triệu chứng: Hen suyễn gấp, trong hầu có tiếng khò khè, đàm đặc ho khó ra, trong ngực bí, thở mạnh, miệng khát thích uống lạnh, miệng đắng, mặt đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.
Bài thuốc:Bạch quả 10 quả, cam thảo 6g, hạnh nhân 8g, tô tử 12g, hoàng cầm 8g, bán hạ 6g, tang bạch bì 10g, khoản đông hoa 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Những bài thuốc chữa hen suyễn bằng thực phẩm
Hen suyễn là bệnh viêm mạn tính ở phế quản, quá trình viêm này có sự tham gia của nhiều tế bào và nhiều thành phần của tế bào. Viêm mạn tính đi kèm với sự nhạy cảm quá mức của đường dẫn khí dẫn đến các cơn suyễn tái đi tái lại của các triệu chứng khò khè, khó thở, nặng ngực và ho. Các triệu chứng này đặc biệt thường xảy ra vào ban đêm hoặc sáng sớm. Các cơn suyễn đi kèm với việc lan rộng – nhưng rất thay đổi – của sự tắc nghẽn đường dẫn khí bên trong phổi mà thường là hồi phục tự nhiên hay do điều trị. Hen suyễn là một bệnh mạn tính - bệnh mạn tính có nghĩa là nó luôn đi theo người bệnh đến …cả cuộc đời.
Hen suyễn là bệnh có tỷ lệ người mắc bệnh khá cao. Lấy ví dụ tại Mỹ, với dân số khoảng 300 triệu người có khoảng 22 triệu người bị hen suyễn, mỗi năm hen suyễn gây ra khoảng 5.000 ca tử vong, 2 triệu lần phải cấp cứu, và 500.000 trường hợp phải nhập viện mỗi năm. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ ước tính người bị hen suyễn là khoảng 5% dân số (khảo sát này được thực hiện bởi TS. Phạm Duy Linh và cộng sự tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch). Với tỷ lệ mắc bệnh cao như vậy, hen suyễn là bệnh gây hậu quả khá nghiêm trọng. Hơn nữa, có bằng chứng ngày càng nhiều là nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, hen suyễn có thể gây suy giảm dài hạn chức năng phổi (còn gọi là suy hô hấp mạn tính).
Hen suyễn là một bệnh lý có hai vấn đề chủ yếu xảy ra bên trong đường dẫn khí của phổi.
•    Co thắt phế quản: các cơ trơn phế quản siết chặt hay thắt chặt lại với nhau. Co thắt phế quản có thể gây cản trở không cho không khí được hít vào hay thở ra qua phế nang phổi.
•    Viêm đường dẫn khí: ở người bị hen suyễn đường dẫn khí của phổi luôn luôn bị viêm, trở nên sưng nhiều hơn và kích ứng khi bắt đầu có cơn hen. Sự sưng này chính là do viêm. Viêm có thể làm giảm lượng không khí mà người bệnh có thể hít vào hay thở ra khỏi phổi. Trong một số trường hợp, các tuyến nhầy trên đường dẫn khí tiết quá nhiều chất nhày đặc, và hệ quả là làm tắt nghẽn đường dẫn khí. Lúc này bệnh nhân có cảm giác ngộp thở dù đang ở nơi đầy không khí.
Sự co thắt và viêm đường dẫn khí đồng thời gây thu hẹp đường dẫn khí, có thể làm thở khò khè, co kéo – cò cữ, thắt chặt lồng ngực (tạo cảm giác “nặng ngực” hay “đau ngực” như một số bệnh nhân mô tả), hoặc thở hổn hển (khó thở). Ở người bị hen suyễn, đường dẫn khí bị viêm ngay cả khi không có những triệu chứng.
Điều gì sẽ xảy ra đối với người bị bệnh suyễn không được kiểm soát? Tiếng rít nghe được khi thở? Ho? Nặng ngực? Khó thở? Đa số những người bị hen suyễn có một hay nhiều hơn những triệu chứng sau:
•    Khò khè: tiếng rít thường nghe được khi thở ra. Tiếng rít này dễ dàng được nhận ra bởi bác sĩ khi khám bệnh hay thậm chí chính bệnh nhân cũng có thể nhận ra. Khò khè nghe như tiếng mèo rên hoặc ngày xưa ông bà ta thường gọi là tiếng “cò cử”.
•    Ho: ho có thể kéo dài và thường hay xảy ra. Ho cũng là dấu hiệu nặng của cơn suyễn ban đêm. Ho rất dễ bị nhầm lẫn với những bệnh khác. Đặc biệt ở Việt Nam, một số bệnh nhân bị ho do hen suyễn dễ được chẩn đoán nhầm là viêm phế quản, viêm họng hay thậm chí được chẩn đoán là ho lao (bản thân người viết đã gặp một số trường hợp người bị hen suyễn chỉ có biểu hiện là ho và đã được điều trị bằng thuốc lao). Một số bệnh nhân bị hen suyễn chỉ có biểu hiện duy nhất là ho, đặc biệt là nửa đêm về sáng.
•    Nặng ngực: cảm giác giống như lồng ngực bị bóp chặt.
•    Khó thở: thở thấy khó khăn, đặc biệt là thở ra.
Điểm cốt yếu của hen suyễn là, ngay cả khi người bệnh không để ý đến nó, viêm đường dẫn khí luôn đồng hành cùng bệnh nhân. Đường dẫn khí bị viêm dù đang có triệu chứng hen suyễn hay không có triệu chứng hen suyễn. Đó là lý do hết sức quan trọng rằng tại sao người bệnh phải điều trị dự phòng hen suyễn hàng ngày – ngay cả khi cảm thấy khỏe – do ngày càng có nhiều bằng chứng chứng minh rằng – nếu không được điều trị, hen suyễn có thể gây suy hô hấp mạn tính.
Nói chung, có hai loại thuốc để điều trị bệnh suyễn – thuốc dự phòng và thuốc cắt cơn nhanh (cũng còn gọi là “thuốc cấp cứu”). Các thuốc dự phòng, như corticosteroid dạng hít, được sử dụng hàng ngày để giảm viêm và ngăn chặn những triệu chứng xảy ra. Các thuốc cắt cơn nhanh được sử dụng để giảm co thắt các cơ trơn đường hô hấp trong cơn hen suyễn.
Dự phòng hen suyễn, ngoài việc dùng thuốc, bệnh nhân cần chú ý đến những thứ có thể gây kích ứng cơn hen suyễn được gọi chung là dị ứng nguyên. Chúng có thể là thực phẩm như bò, gà, đồ biển. Hoặc không phải thực phẩm như khói bụi (đặc biệt là khói thuốc lá), phấn hoa, dị ứng nguyên từ chó mèo, gián, nấm mốc, mạt nhà.
Một số bài thuốc hen suyễn từ thực phẩm

Có một số thực phẩm kích hoạt cơn hen suyễn. Ngược lại, cũng có một số thực phẩm có ích cho hen suyễn. Việc điều trị hen suyễn bằng thuốc theo Tây y, do sử dụng dài hạn, có thể có những tác dụng bất lợi cho cơ thể. Vì thế, ngày nay, kể cả những nước Phương tây, việc điều trị những bệnh mạn tính ngày càng được chú ý nhiều hơn đến những phương thuốc từ cỏ cây, thực phẩm.
Củ gừng. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết dùng gừng như một vị thuốc chống nôn. Gừng, với hoạt chất chính yếu có giá trị trong chống nôn là gingerol (có lẽ vì hoạt chất này mà tên tiếng Anh của Gừng là Ginger). Vị đặc trưng của gừng cũng là do chất gingerol. Ngoài gingerol, trong gừng còn có guineapigileum có hoạt tính kháng hydroxytryptamine giúp chống nôn hiệu quả. Ngày nay, một số nghiên cứu trong ngành thực vật ở Ấn Độ đã thấy gừng có đặc tính kháng viêm giúp ức chế đáp ứng miễn dịch thái quá trong hen suyễn. Hơn nữa, gừng cũng có hoạt tính làm long đàm. Một nghiên cứu được tiến hành trên 92 bệnh nhân bị hen suyễn ở Iran. Bệnh nhân được sử dụng 150 mg bột gừng 3 lần mỗi ngày trong 2 tháng. Sau 2 tháng sử dụng gừng đã có cải thiện đáng kể triệu chứng của hen suyễn là khò khè và nặng ngực. Khò khè giảm 19,5% và nặng ngực giảm 52%.
Mật ong. Mật ong giúp làm loãng chất đàm nhớt trong phế quản và tạo điều kiện dễ dàng để tống xuất đàm nhớt ra ngoài. Như bạn đã biết, chất nhầy của đàm nhớt tích tụ trong phế quản ngăn cản oxy đi vào cũng như ngăn chặn sự đào thải CO2 ra ngoài. Điều này kích hoạt cơn suyễn cấp. Mật ong có thể được sử dụng bằng cách pha trong nước uống hàng ngày (một muỗng cà phê mật ong mỗi ngày) hoặc một muỗng cà phê mật ong pha với nửa muỗng cà phê bột quế uống 1 lần mỗi ngày (sáng hoặc tối). Cách tốt hơn là dùng mật ong pha với nước cốt gừng tươi.

Một số bài thuốc khác từ thực phẩm dùng trong hen suyễn:

•    Dịch tỏi: dịch chiết xuất từ tỏi. Hòa 10 – 15 giọt dịch tỏi trong nước ấm và uống sẽ giúp làm giảm triệu chứng hen suyễn.
•    Húng quế: Cho 30 – 40 lá húng quế vào 1 lít nước uống dần trong ngày.
•    Hỗn hợp: hòa ¼ ly nước cốt củ hành tây, 1 muỗng cà phê mật ong và 1/8 muỗng cà phê tiêu đen.
•    Hỗn hợp: hòa trộn cam thảo và gừng với nhau. Dùng nửa muỗng cà phê hỗn hợp này với 1 ly nước. Không được sử dụng ở người bị tăng huyết áp.
•    Hỗn hợp: pha 1 ly hỗn hợp gồm 2/3 nước ép cà rốt và 1/3 nước ép cải bó xôi (rau bina hay spinach). Ngày 3 lần, mỗi lần dùng 1 ly.
•    Hỗn hợp: nghiền gừng, nghệ, tiêu đen rồi trộn với mật ong cho sền sệt. Mỗi ngày dùng 1 muỗng cà phê hỗn hợp này.

Một số bài thuốc từ thực phẩm của các nước

Tại Anh, si-rô được bào chế từ vài lát củ hành thái mỏng trộn với mật ong dùng 3 – 4 lần mỗi ngày giúp cải thiện tình trạng hen suyễn. Người Anh cũng dùng vỏ và lá cây bạch quả (ginkgo) để làm giảm tình trạng hắt hơi do dị ứng và hen suyễn.
Tại Úc, tinh dầu khuynh diệp được sử dụng để làm giảm các tình trạng khó chịu của hệ hô hấp và hen suyễn. Lá khuynh diệp chứa rutin, một loại bioflavonoid, giúp làm giảm tình trạng viêm của phế quản. Bệnh nhân có thể thở với nước trà nóng có pha tinh dầu khuynh diệp hay uống vài giọt tinh dầu khuynh diệp pha loãng với nước nóng.
Tại Ai Cập, người bị hen suyễn được khuyên ăn quả sung, vả, nho có tác dụng làm giảm hen suyễn.
Tại Trung Hoa, cái nôi của Y học Đông phương khuyên người bị hen suyễn sử dụng lá trà trong việc làm giảm hen suyễn (lá trà có chứa theophylline, một chất có tác dụng làm giãn phế quản). Một cách khác là xào rễ cây ma hoàng với mật ong, sau đó hỗn hợp này trộn với phần cơm quả mơ được một chế phẩm cắt cơn hen suyễn. Vì trong thành phần của rễ cây ma hoàng có ephedrin, pseudoephedrin cho nên không được dùng bài thuốc này cho người bị bệnh tim mạch, tăng huyết áp, người thi đấu thể thao (sẽ cho kết quả dương tính doping).
Tại Hy Lạp & La Mã. Người  Hy Lạp & La Mã cổ xưa đã biết dùng tỏi, tiêu đen, quế và giấm trong điều trị hen suyễn. Những thực phẩm có vị cay và hăng này có thể thúc đẩy sự bài tiết nước trong phế quản, điều này giúp làm sạch chất nhầy bít tắc trong phế quản. Một số thực phẩm khác cũng được dùng rộng rãi như là phương thuốc cổ truyền điều trị hen suyễn: cá nước ngọt, ngò tây, cỏ cà ri, củ cải, bạc hà (loại bạc hà dùng tinh chế ra dầu bạc hà, không phải loại bạc hà nấu canh chua), nho khô, cháo yến mạch. Những thực phẩm này có vai trò kiểm soát hiện tượng viêm trong phế quản do làm loãng chất nhầy, làm giãn phế quản và cải thiện chức năng của hệ hô hấp. Người Hy Lạp cũng khuyến cáo dùng trà được chế biến từ hạt thì là (thì là rất thông dụng ở miền Bắc Việt Nam) có tác dụng bổ phế và giảm triệu chứng hen suyễn. Thì là có chứa rutin, nhiều vitamin và khoáng chất bao gồm calcium và kali.
Một số nước thuộc Châu Âu. Mỗi ngày uống 2 ly cà phê, mỗi ly khoảng 200 mL có tác dụng tốt trên hen suyễn. Điều này được giải thích là trong cà phê có chứa hoạt chất xanthine có tác dụng làm giãn phế quản.

Mẹo chữa hen phế quản đơn giản hiệu quả


Hen phế quản là tình trạng viêm mạn tính của phế quản gây nên phù và hẹp đường thở, gây khó thở rít. ho, tức ngực từng đợt tái diễn, thường bị tắc nghẽn đường thở có thể tự hồi phục hoặc do điều trị. Quá trình viêm này hay kèm theo tăng tính phản ứng phế quản với nhiều tác nhân kích thích gây co thắt phế quản. Hiện tượng hẹp phế quản thường hồi phục hoàn toàn hoặc ít nhất một phần với điều trị. 

Các phế quản bị viêm mạn tính trở nên dễ nhạy cảm với các tác nhân gây dị ứng (đặc hiệu) hoặc những tác nhân kích thích (không đặc hiệu). Đường hô hấp trở nên "bối rối" và vẫn ở trong trạng thái nhạy cảm cao. Hiện tượng này được gọi là "phản ứng quá mức của phế quản" (BHR-Bronchial Hyperreactivity). Những người bị hen phế quản hoặc dị ứng thì thường có hiện tượng phản ứng quá mức của phế quản mạnh hơn so với những người không bị hen phế quản hoặc không bị dị ứng. Ở những người nhạy cảm, phế quản dễ bị phù (sưng) và hẹp khi tiếp xúc với các tác nhân như chất gây dị ứng, khói thuốc lá, hoặc tập thể dục. Trong số những người bị hen phế quản thì một số người có phản ứng quá mức của phế quản ở mức độ nhẹ và không có triệu chứng trong khi một số khác thì có phản ứng quá mức của phế quản ở mức độ nặng và có các triệu chứng mạn tính.

NHỮNG ĐIỀU CHƯA BIẾT VỀ HEN PHẾ QUẢN

Thế nào là phế quản bình thường?


Trước khi đánh giá hen phế quản ảnh hưởng như thế nào lên đường hô hấp thì chúng ta cần xem qua cấu trúc và chức năng của phế quản bình thường.
Không khí chúng ta thở qua mũi, miệng để vào thanh quản rồi vào khí quản. Không khí sau đó vào phổi bằng một trong hai phế quản chính (mỗi phổi có một phế quản chính). Phế quản tiếp tục phân nhánh trong phổi thành những ống nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa được gọi là tiểu phế quản. Không khí hít vào sẽ đi qua hệ thống các khí đạo (đường thở) này để đến hàng triệu túi khí nhỏ trong phổi được gọi là phế nang. Ôxy (O2) từ phế nang vào dòng máu thông qua hệ thống mạch máu rất nhỏ được gọi là mao mạch. Tương tự, các sản phẩm phế thải của cơ thể như khí carbonic (CO2) sẽ từ dòng máu vào trong phế nang và từ đó sẽ được thở ra ngoài.
Các phế quản bình thường cho phép không khí đi vào và đi ra phổi thật nhanh chóng, giúp đảm bảo nồng độ O2 và CO2 ổn định trong máu. Thành của các phế quản được bao quanh bởi lớp cơ trơn có thể co và dãn một cách tự động khi chúng ta thở. Sự co thắt và dãn nỡ của các phế quản được điều khiển bởi hai hệ thần kinh khác nhau, cùng hòa hợp hoạt động để giúp cho đường thở luôn mở.
Lớp lót bên trong của phế quản còn được gọi là lớp niêm mạc, nó chứa: (1) tuyến nhầy (tiết ra đủ chất nhầy để giúp bôi trơn đường thở); (2) các tế bào viêm như tế bào mast, tế bào lympho, bạch cầu ái toan. Các tế bào này giúp bảo vệ niêm mạc của phế quản đối với vi khuẩn, tác nhân dị ứng, chất kích thích khi được hít vào bên trong, và các tế bào này có thể làm cho mô phế quản bị sưng phù. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng các các tế bào viêm này đóng vai trò rất quan trọng trong phản ứng dị ứng.


Nguyên nhân gây bệnh hen phế quản

Các triệu chứng của hen phế quản có thể được kích hoạt và trở nên nặng nề hơn bởi nhiều tác nhân. Không phải tất cả những người bị hen phế quản đều bị phản ứng với cùng một tác nhân. Ngoài ra, ảnh hưởng của các tác nhân này lên phổi cũng khác nhau ở mỗi người. Nói chung, độ nặng của các triệu chứng hen phế quản phụ thuộc vào việc có bao nhiêu tác nhân kích hoạt nên các triệu chứng và phổi của bạn nhạy cảm như thế nào đối với chúng.
Các tác nhân có thể được chia làm 2 nhóm:
Tác nhân dị ứng:
Phấn hoa theo mùa
Bụi, nấm mốc, vật nuôi, các thành phần của côn trùng
Thực phẩm như cá, trứng, đậu phộng, sữa bò, đậu nành
Các chất phụ gia như sulfite
Các tác nhân có liên quan đến công việc như chất latex
Khoảng 80% trẻ em và 50% người lớn bị hen phế quản đều có dị ứng.
Tác nhân kích thích:
Nhiễm trùng hô hấp: chẳng hạn như cảm cúm, viêm phế quản, viêm xoang
Thuốc: Như aspirin, các thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) khác, thuốc ức chế thụ thể beta (thường được dùng để điều trị cao huyết áp và một số bệnh tim)
Hút thuốc lá
Các yếu tố ngoài môi trường như khói, thay đổi thời tiết, mùi diesel
Các yếu tố trong nhà như nước sơn, bột giặt, khử mùi, hóa chất, nước hoa
Ban đêm
Bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản (GERD)
Tập thể dục: ví dụ như trong điều kiện lạnh và khô
Các yếu tố liên quan đến công việc như hóa chất, bụi, gas, kim loại
Các yếu tố cảm xúc: cười, khóc, hò hét, đau buồn...
Các yếu tố liên quan đến nội tiết tố (hormon): VD như hội chứng tiền mãn kinh
Việc có nhiều tác nhân tiềm ẩn giải thích vì sao hen phế quản có thể khởi phát theo nhiều cách khác nhau. Nhưng trong đa số các trường hợp thì nó thường khởi phát trong độ tuổi từ 2 đến 6. Trong độ tuổi này thì thì hen phế quản thường có liên quan đến việc tiếp xúc với các tác nhân dị ứng như bụi, khói thuốc và nhiễm siêu vi đường hô hấp. Ở những trẻ dưới 2 tuổi thì khó chẩn đoán hen phế quản một cách chắc chắn. Thở khò khè ở độ tuổi này có thể theo sau tình trạng nhiễm siêu vi đường hô hấp và thường biến mất sau đó mà không dẫn đến bệnh hen phế quản. Tuy nhiên hen phế quản có thể khởi phát trở lại vào độ tuổi trưởng thành. Hen phế quản khởi phát ở người lớn thì thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn, hầu hết vào độ tuổi trung niên và thường theo sau một tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp. Tác nhân kích thích đối với nhóm này về bản chất là thường không phải do dị ứng.


Hen phế quản do dị ứng (ngoại lai) và hen phế quản không do dị ứng (nội tại) là gì?
Bác sĩ có thể đề cập đến hen phế quản là "ngoại lai" hay "nội tại". Việc hiểu rõ hơn về bản chất của hen phế quản có thể giúp giải thích về sự khác biệt giữa chúng.
Hen phế quản "ngoại lai"(do dị ứng) thì phổ biến hơn (90%) và thường khởi phát khi còn là trẻ con. Có 80% trong số trẻ em bị hen phế quản được ghi nhận là có hiện tượng dị ứng. Tiền sử gia đình có người bị dị ứng và những trẻ này thường có thêm các dị ứng ở nơi khác như dị ứng mũi, chàm. Hen phế quản do dị ứng thường thuyên giảm khi bắt đầu đến tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, có khoảng 75% trường hợp thì hen phế quản xuất hiện trở lại.
Hen phế quản "nội tại"(không do dị ứng) chiếm khoảng 10% trường hợp, thường khởi phát sau 30 tuổi và không có liên quan đến dị ứng. Loại này liên quan đến phụ nữ nhiều hơn và trong nhiều trường hợp thường theo sau tình trạng nhiễm trùng hô hấp. Loại hen phế quản này thường khó điều trị, các triệu chứng diễn tiến mạn tính và xuất hiện quanh năm.

Biến chứng của bệnh hen phế quản 
Hen phế quản làm hẹp đường thở, và ảnh hưởng đến việc di chuyển không khí vào và ra phổi. Hen phế quản chỉ ảnh hưởng đến phế quản mà không ảnh hưởng đến phế nang và mô phổi. Hiện tượng chích hẹp phế quản là do ba yếu tố chính: viêm, co thắt phế quản và phản ứng quá mức.
Viêm: Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hẹp lòng phế quản là hiện tượng viêm. Phế quản sẽ bị đỏ, kích thích, phù. Phản ứng viêm xuất hiện là để đáp ứng đối với sự hiện diện của các tác nhân dị ứng hoặc chất kích thích. Phản ứng viêm là do tác động của các hóa chất trung gian như histamine, leukotrienes, và các chất khác. Các mô bị viêm sẽ tiết ra quá mức các chất nhầy vào trong lòng phế quản. Các chất nhầy sẽ kết hợp với nhau để tạo thành những nút nhầy có thể làm nghẹt các phế quản nhỏ (tiểu phế quản). Các tế bào viêm sẽ đến tích tụ và làm tổn thương mô tế bào. Các tế bào bị tổn thương sau đó sẽ bị bong tróc vào bên trong và góp phần gây nên hiện tượng hẹp đường thở.
Co thắt phế quản: Cơ bao bọc xung quanh phế quản bị co thắt trong cơn hen phế quản. Hiện tượng co thắt các cơ ở đường thở được gọi là co thắt phế quản. Hiện tượng co thắt phế quản làm cho đường thở càng bị hẹp hơn. Các hóa chất trung gian và dây thần kinh đã làm cho các cơ này co thắt lại.
Phản ứng quá mức (Quá mẫn cảm): Ở bệnh nhân bị hen phế quản, đường thở bị co thắt và viêm mạn tính trở nên nhạy cảm hơn, phản ứng mạnh hơn đối với các tác nhân gây dị ứng, chất kích thích, nhiễm trùng. Việc tiếp xúc với các tác nhân này có thể làm cho đường thở bị viêm và hẹp nhiều hơn.
Sự phối hợp của các yếu tố trên gây nên hiện tượng khó thở ở thì thở ra. Kết quả là không khí cần phải được thở ra thật mạnh để có thể đi qua chổ hẹp, do đó tạo nên tiếng khò khè hay tiếng rít.. Người bị hen phế quản thường bị ho để có thể tống các nút nhầy trong phế quản ra ngoài. Sự suy giảm lưu thông không khí làm cho ít ôxy đi vào trong máu, và nếu nặng thì có thể khí carbonic (CO2) sẽ tích tụ nguy hiểm trong máu.
Tầm quan trọng của hiện tượng viêm?
Viêm hay phù là một đáp ứng bình thường của cơ thể đối với hiện tượng chấn thương hoặc nhiễm trùng. Dòng máu và các tế bào viêm đổ dồn về vùng đang bị ảnh hưởng. Quá trình chữa lành vết thương bắt đầu. Khi quá trình chữa lành vết thương hoàn tất thì phản ứng viêm sẽ lắng xuống. Đôi khi quá trình chữa lành vết thương gây nên sẹo. Tuy nhiên, vấn đề trung tâm trong hen phế quản là quá trình viêm không thể tự nó giải quyết được vấn đề. Trong khoảng thời gian ngắn thì nó sẽ gây ra các cơn hen phế quản tái diễn. Về lâu dài thì quá trình viêm có thể làm cho thành phế quản bị dầy lên và được gọi là hiện tượng tái cấu trúc phế quản. Nếu điều này xuất hiện thì hiện tượng hẹp lòng phế quản sẽ trở nên không hồi phục và kém đáp ứng với thuốc. Do đó, mục đích điều trị hen phế quản là: (1) Về ngắn hạn là kiểm soát hiện tượng viêm để làm giảm phản ứng của phế quản và (2) Về lâu dài là ngăn chặn hiện tượng tái cấu trúc ở phế quản. 
Các triệu chứng của hen phế quản

Các triệu chứng của hen phế quản thì biểu hiện khác nhau ở mỗi người và trên cùng một người chúng cũng biểu hiện khác nhau tùy theo từng thời điểm. Điều quan trọng cần nhớ là phần nhiều trong số các triệu chứng này thì chỉ biểu hiện phảng phất và có thể tương tự với các bệnh lý khác. Tất cả các triệu chứng được đề cập dưới đây có thể gặp ở các bệnh lý hô hấp và thỉnh thoảng có thể gặp ở những bệnh lý tại tim.
Sau đây là 4 triệu chứng thường thấy nhất:
Thở nhanh (Thở ngắn):Đặc biệt là có kèm gắng sức hoặc vào buổi tối.
Thở khò khè:nghe có tiếng rít khi thở ra
Ho:Có thể kéo dài, thường nhiều vào ban đêm và sáng sớm, có thể xuất hiện sau khi tập thể dục, hoặc khi tiếp xúc với không khí lạnh và khô.
Nặng ngực:Có thể xuất hiện đi kèm hoặc không đi kèm với các triệu chứng trên.
Hen phế quản được phân loại dựa vào tần suất và độ nặng của triệu chứng, hay của cơn hen phế quản, và dựa vào kết quả xét nghiệm chức năng phổi:
30% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ nhẹ, không liên tục (ít hơn 2 đợt hen trong một tuần) và những xét nghiệm về chức năng thở bình thường.
30% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ nhẹ, dai dẳng (2 đợt hay nhiều hơn trong một tuần) và chức năng thở bình thường hoặc bất thường.
40% bệnh nhân có các triệu chứng hen phế quản ở mức độ từ trung bình đến nặng, dai dẳng (mỗi ngày hoặc liên tục) và chức năng thở bất thường.
Cơn hen phế quản cấp tính là gì?
Cơn hen phế quản cấp tính (hay đột ngột) thường do tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc nhiễm trùng hô hấp trên. Độ nặng của cơn hen tùy thuộc vào việc cơn hen của bạn được kiểm soát tốt như thế nào (điều này phản ánh tình trạng viêm đường hô hấp được kiểm soát tốt như thế nào). Cơn hen phế quản cấp tính có thể đe dọa mạng sống bởi vì nó có thể tiếp tục diễn tiến dù cho có sử dụng thuốc tác dụng nhanh (thuốc dãn phế quản dạng hít). Hen phế quản không đáp ứng với điều trị bằng đường hít thì nên được theo dõi chặt chẽ tại phòng cấp cứu của bệnh viện. Các cơn hen phế quản không tự dừng lại khi không được điều trị. Nếu bạn bỏ qua các triệu chứng cảnh báo sớm (tiền triệu) thì có nghĩa là bạn tự đặt mình vào nguy cơ bị khởi phát "trạng thái suyễn" (status asthmaticus).
Các cơn hen phế quản kéo dài không đáp ứng điều trị với thuốc dãn phế quản là một cấp cứu nội khoa. Bác sĩ lâm sàng gọi các cơn hen nặng này là "trạng thái suyễn" và cần được săn sóc khẩn cấp.
Các triệu chứng của hen phế quản nặng là:
Ho dai dẳng
Không có khả năng nói thành câu hoàn chỉnh
Không thể đi bộ mà không bị thở nhanh.
Ngực cảm thấy bị bóp chặt
Môi có thể xanh tái
Cảm thấy hồi hộp, không có khả năng tập trung.
Bạn có thể khom vai, ngồi hoặc đứng để có thể thở dễ dàng hơn.
Các cơ vùng bụng và cổ co kéo. Đây là những dấu hiệu cảnh báo tình trạng suy hô hấp.
Vào thời điểm này thì các thuốc dãn phế quản đường hít khó có thể giúp hồi phục. Thông khí cơ học (thở máy) có thể cần thiết để trợ giúp cho các cơ hô hấp. Có thể điều trị bằng mặt nạ dưỡng khí hoặc đặt ống nội khí quản qua đường miệng hoặc mũi. Việc trợ giúp hô hấp này chỉ là tạm thời và được sẽ được tháo bỏ một khi cơn hen dịu đi và phổi hồi phục đầy đủ để có thể tiếp tục thực hiện chức năng hô hấp của nó. Việc nằm viện ngắn hạn trong khoa săn sóc tăng cường có thể là hậu quả của một cơn hen nặng mà không được điều trị kịp thời. Để tránh những trường hợp nhập viện như thế, tốt nhất là khi triệu chứng khởi phát thì bắt đầu điều trị ngay lập tức tại nhà hoặc tại phòng mạch bác sĩ.
Sự xuất hiện các triệu chứng ho và thở khò khè không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để đánh giá độ nặng của cơn hen phế quản. Những cơn hen rất nặng có thể gây tắc nghẽn đường thở làm cho không khí không thể đi vào hay ra khỏi phổi và do đó không tạo nên tiếng thở khò khè hay ho.


Chẩn đoán phân biệt bệnh hen phế quản

Bệnh hen cần phân biệt với một vài bệnh sau:
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường khởi phát muộn sau 40 tuổi, có tiền sử hút thuốc nhiều năm hoặc tiếp xúc với bụi khói, nhưng không có tiền sử gia đình bị hen, không có tiền sử dị ứng. Bệnh nhân có ho khạc mạn tính, khó thở khi gắng sức, đôi khi có khó thở thành cơn, có rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục.
Hen tim: bệnh nhân có hẹp van hai lá, hở động mạch chủ, suy tim trái. Triệu chứng: khó thở về đêm, nghe phổi có ran rít, ran ngáy, ran ẩm, đờm bọt hồng; chụp Xquang thấy hình ảnh tổn thương phổi tim; điều trị bằng thuốc lợi tiểu, chống suy tim thì đỡ khó thở.
Biến chứng: Hen có thể gây các biến chứng cấp tính là hen ác tính, tâm phế cấp, tràn khí màng phổi và biến chứng mạn tính gồm khí phế thũng, biến dạng lồng ngực, suy hô hấp mạn, tâm phế mạn.

Điều trị hen phế quản

Hầu hết các thuốc điều trị hen phế quản có tác động chủ yếu là giảm sự co thắt phế quản (thuốc dãn phế quản) hoặc giảm viêm (thuốc corticosteroids). Trong điều trị hen phế quản, các thuốc dạng hít nhìn chung được ưa chuộng hơn so với các thuốc dạng viên nén hoặc dạng lỏng được uống qua đường miệng. Các thuốc dạng hít tác động trực tiếp lên bề mặt và cơ của đường hô hấp, nơi mà các triệu chứng của hen phế quản bắt đầu. Sự hấp thu của các thuốc dạng hít vào các nơi khác của cơ thể là rất ít. Do đó các tác dụng phụ ít gặp hơn so với các thuốc dạng uống.
Các thuốc dạng hít bao gồm:
Thuốc đồng vận thụ thể beta-2 (beta-2 agonist)
Thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic)
Corticosteroids
Cromolyn sodium
Các thuốc dạng uống bao gồm:
Aminophylline
Thuốc đối vận leukotriene (leukotriene antagonist)
Viên nén corticosteroids
Trước đây, một trong những thuốc được sử dụng để điều trị hen phế quản là adrenaline (epinephrine). Adrenaline có cơ chế tác động nhanh trong việc mở rộng đường thở (tác dụng dãn phế quản). Nó vẫn còn được sử dụng trong các tình trạng cấp cứu của hen phế quản. Thật không may là adrenaline có nhiều tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, nhức đầu, buồn nôn, nôn, bồn chồn, hoảng loạn.
Có nhiều thuốc về mặt hóa học tương tự với adrenaline đã được bào chế. Những thuốc này được gọi là đồng vận beta-2 có tác dụng làm dãn phế quản như adrenaline nhưng không có nhiều tác dụng phụ. Thuốc đồng vận beta-2 là thuốc dãn phế quản dạng hít. Được gọi là "đồng vận" bởi vì chúng thúc đẩy những tác động của thụ thể beta-2 ở các cơ thành phế quản. Các thụ thể này có tác động làm dãn các cơ ở thành phế quản, kết quả là làm dãn phế quản. Tác động làm dãn phế quản của thuốc đồng vận beta-2 này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi hít và kéo dài khoảng 4 giờ. Các ví dụ cho nhóm thuốc này là albuterol (Ventolin, Proventil), metaproterenol (Alupent), pirbuterol acetate (Maxair) và terbutaline sulfate (Brethaire).
Các thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài đã được bào chế với thời gian tác dụng liên tục trong 12 giờ. Các thuốc dạng hít này được sử dụng 2 lần một ngày. Ví dụ cho nhóm thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài này là salmeterol xinafoate (Serevent). Các thuốc nhóm này thường không được sử dụng cho các cơn hen cấp tính và chúng có một số tác dụng phụ như lo lắng, rung, hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, hạ kali máu.
Do các thuốc đồng vận beta-2 có thể làm dãn phế quản trong khi các thuốc chẹn thụ thể beta có thể làm suy giảm sự dãn cơ ở phế quản thông qua thụ thể beta-2 và có thể làm co thắt phế quản và tình trạng hen phế quản nặng nề hơn. Do đó, nhóm thuốc chẹn beta như các thuốc điều trị cao huyết áp propanolol (Inderal) và atenolol (Tenormin) nên tránh dùng cho bệnh nhân hen phế quản.
Các thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic) tác động vào loại dây thần kinh khác so với nhóm thuốc đồng vận beta-2 để đạt được hiệu quả dãn phế quản. Hai nhóm thuốc dãn phế quản dạng hít khi được sử dụng cùng nhau có thể cho hiệu quả dãn phế quản mạnh hơn. Thuốc nhóm này thường được sử dụng là ipratropium bromide (Atrovent). Ipratropium có thời gian bắt đầu tác dụng lâu hơn nhóm đồng vận beta-2, với đỉnh tác dụng xuất hiện vào khoảng 2 giờ sau khi sử dụng và kéo dài 6 giờ. Nhóm thuốc kháng cholinergic này có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị khí phế thủng.
Khi các triệu chứng của hen phế quản khó kiểm soát bằng thuốc đồng vận beta-2 thì corticosteroids (Cortisone) thường được thêm vào. Corticosteroid có thể cải thiện chức năng phổi và làm giảm hiện tượng tắc nghẽn của phế quản. Các thuốc nhóm này bao gồm beclomethasone dipropionate (Beclovent, Beconase, Vancenase, Vanceril), triamcinolone acetonide (Azmacort) và flunisolide (Aerobid). Liều lý tưởng cho các thuốc corticosteroid này chưa rõ. Các tác dụng phụ của thuốc corticosteroid dạng hít bao gồm khàn tiếng, mất giọng, nhiễm nấm ở vùng miệng. Việc sử dụng sớm các corticosteroid dạng hít có thể giúp ngăn chặn những tổn thương không hồi phục của phế quản.
Cromolyn sodium (Intal) ngăn chặn sự phóng thích các hóa chất trung gian ở phổi như histamine, chất mà có thể gây ra cơn hen. Chính xác là cromolyn tác động như thế nào trong việc ngăn ngừa hen phế quản cần được nghiên cứu thêm. Cromolyn không phải là corticosteroid và không có tác dụng phụ đáng kể. Cromolyn là thuốc có ích trong việc ngăn ngừa hen phế quản nhưng lại có tác dụng hạn chế một khi cơn hen phế quản cấp tính khởi phát. Cromolyn có thể giúp ngăn ngừa cơn hen phế quản bị kích thích bởi tập thể dục, không khí lạnh, các tác nhân dị ứng như lông mèo. Cromolyn có thể được sử dụng ở trẻ em cũng như người lớn.
Theophylline (Theodur, Theoair, Slo-bid, Uniphyl, Theo-24), aminophylline là những ví dụ của nhóm thuốc methylxanthines. Methylxanthines có thể được sử dụng bằng đường uống và tiêm tĩnh mạch. Trước khi các thuốc dạng hít trở nên phổ biến thì methylxanthines chính là "trụ cột" trong điều trị hen phế quản. Chất caffeine có trong cafe thông thường và các loại nước giải khát cũng là một thuốc methylxanthine. Theophylline làm dãn cơ phế quản và ngăn ngừa các tế bào lót bên trong lòng phế quản (tế bào mast) phóng thích ra các hóa chất trung gian như histamine mà có thể gây ra cơn hen phế quản. Theophylline có thể hoạt động như một thuốc lợi tiểu nhẹ và làm gia tăng sự tiểu tiện. Đối với hen phế quản khó kiểm soát thì methylxanthines vẫn còn đóng một vai trò quan trọng. Liều lượng sử dụng theophylline hay aminophylline được theo dõi chặt chẽ. Nếu sử dụng liều quá mức có thể gây buồn nôn, nôn, rối loạn nhịp tim và thậm chí co giật. Trong một số trường hợp như suy tim hoặc xơ gan thì liều lượng của methylxanthines thường thấp để tránh nồng độ của nó tăng cao trong máu. Sự tương tác với các thuốc khác như cimetidine (Tagamet), thuốc chẹn kênh canxi (Procardia), quinolones (Cipro), allopurinol (Xyloprim) có thể cũng ảnh hưởng đến nồng độ của thuốc trong máu.
Thuốc corticosteroids đường uống có thể được sử dụng ở những bệnh nhân bị hen phế quản nặng không đáp ứng điều trị với các thuốc khác. Tuy nhiên, corticosteroids liều cao và sử dụng kéo dài có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng như loãng xương, gãy xương, tiểu đường (đái tháo đường), cao huyết áp, mỏng da và dễ bị bầm tím, mất ngủ, thay đổi cảm xúc và tăng cân.
Các thuốc long đờm giúp làm loãng đờm trong đường hô hấp, và từ đó làm cho nó dễ bị tống ra ngoài khi ho. Muối KI (potassium iodide) không được sử dụng phổ biến vì có thể gây nên mụn, tăng tiết nước bọt, phát ban, các vấn đề tuyến giáp. Guaifenesin (Entex, Humibid) có thể gia tăng sự sản xuất các chất dịch giúp làm loãng đờm, nhưng cũng có thể là chất kích thích đối với một số người.
Ngoài việc sử dụng các thuốc dãn phế quản cho những bệnh nhân bị hen phế quản do dị ứng thì việc tránh tiếp xúc với những tác nhân dị ứng hoặc các chất kích thích khác cũng rất quan trọng. Đối với những bệnh nhân không thể tránh tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc không thể được kiểm soát bằng thuốc thì việc tiêm phòng dị ứng cần được xem xét. Lợi ích của việc tiêm phòng dị ứng (khử mẫn cảm: desensitization) để phòng ngừa hen phế quản vẫn chưa được xác nhận rõ ràng. Một số bác sĩ vẫn còn e ngại về nguy cơ sốc phản vệ có thể xuất hiện với tỷ lệ 1/2.000.000. Tiêm phòng dị ứng mang lại lợi ích nhiều nhất ở trẻ em bị dị ứng với bụi trong nhà. Phương pháp này cũng có lợi đối với các loại dị ứng với phấn hoa và lông thú.
Ở một số bệnh nhân hen phế quản thì việc tránh sử dụng thuốc aspirin hay các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng rất quan trọng. Đây là những thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm khớp. Ở một số bệnh nhân khác thì việc điều trị bệnh lý hồi lưu (trào ngược) dạ dày - thực quản (GERD) cũng có thể giúp ngăn ngừa sự kích thích ở đường hô hấp. Các biện pháp để ngăn ngừa trào ngược vào thực quản là dùng thuốc, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, bỏ thuốc lá, cafe và rượu. Ví dụ các thuốc được sử dụng để làm giảm tình trạng này bao gồm omeprazole (Prilosec) và ranitidine (Zantac). Bệnh nhân với bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản nặng có thể gây ảnh hưởng đến phổi và cần được phẩu thuật để củng cố cơ thắt thực quản, và từ đó giúp ngăn ngừa hiện tượng trào ngược acid từ dạ dày vào thực quản.

Bài thuốc trị hen phế quản
Hen phế quản là tình trạng phản ứng cao độ ở phế quản trước nhiều kích thích khác nhau, biểu hiện đặc trưng là cơn khó thở với tiếng rít cò cử do co thắt cơ trơn phế quản, phù nề niêm mạc và tăng tiết dịch nhày phế quản. Theo y học cổ truyền, hen phế quản thuộc phạm trù “háo suyễn”, “đàm ẩm”.
Có nhiều nguyên nhân gây hen phế quản. Dựa vào nguyên nhân mà người ta chia ra các thể bệnh chính sau: hen dị ứng (atopic asthma); hen không do dị ứng (nonatopic asthma); hen do thuốc; hen do nghề nghiệp.
Cơn hen thường xuất hiện đột ngột về đêm hoặc khi thay đổi thời tiết. Triệu chứng báo trước là hắt hơi, sổ mũi, ngứa mắt hoặc đỏ mắt, ho khan vài tiếng cò cử mà người ngoài cũng nghe thấy, khó thở tăng đều dần, phải tỳ tay vào thành giường để thở, mệt mỏi, toát mồ hôi, tiếng nói ngắt quãng. Cơn khó thở kéo dài 5 - 10 phút, có khi hàng giờ, có khi cơn liên miên cả ngày không dứt, sau đó giảm dần và kết thúc là một trận ho và khạc đờm dãi. Đờm dãi màu trong quánh và dính, khạc được càng nhiều đờm càng dễ chịu. Trong cơn hen, lồng ngực căng to, mặt tím tái.


Bạch quả trị hen thể nhiệt.

Nguyên nhân gây bệnh do ngoại cảm phải ngoại tà, ăn uống tình chí thất thường, làm việc quá sức. Về tạng phủ, do sự thay đổi hoạt động của tạng phế và thận, vì thế, tuyên giáng và thận nạp khí, bệnh có liên quan mật thiết với đàm. Đàm là sản vật bệnh lý do tỳ hư không vận hóa thủy thấp, thận dương hư không ôn tỳ dương vận hóa thủy cốc và không khí hóa được nước, phế khí hư không hóa giáng thông điều thủy đạo. Trên lâm sàng thấy các hiện tượng đàm nhiều, khó thở, ngực đầy tức.
Hen có nhiều thể bệnh với các bài thuốc khác nhau như sau:
Thể hen hàn:
Triệu chứng: Thở gấp, trong hầu có tiếng hen rít, ngực bí, đờm trong loãng, miệng không khát, thích uống nóng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch phù hoạt.
Bài thuốc: xạ can 10g, tế tân 8g, ma hoàng 12g, ngũ vị tử 6g, bán hạ 6g, tử uyển 8g, đại táo 3 quả, sinh khương 3 lát, khoản đông hoa 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Thể hen nhiệt:
Triệu chứng: Hen suyễn gấp, trong hầu có tiếng khò khè, đàm đặc ho khó ra, trong ngực bí, thở mạnh, miệng khát thích uống lạnh, miệng đắng, mặt đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.
Bài thuốc:Bạch quả 10 quả, cam thảo 6g, hạnh nhân 8g, tô tử 12g, hoàng cầm 8g, bán hạ 6g, tang bạch bì 10g, khoản đông hoa 10g. Sắc uống ngày 1 thang. 

Những bài thuốc chữa hen suyễn bằng thực phẩm
Hen suyễn là bệnh viêm mạn tính ở phế quản, quá trình viêm này có sự tham gia của nhiều tế bào và nhiều thành phần của tế bào. Viêm mạn tính đi kèm với sự nhạy cảm quá mức của đường dẫn khí dẫn đến các cơn suyễn tái đi tái lại của các triệu chứng khò khè, khó thở, nặng ngực và ho. Các triệu chứng này đặc biệt thường xảy ra vào ban đêm hoặc sáng sớm. Các cơn suyễn đi kèm với việc lan rộng – nhưng rất thay đổi – của sự tắc nghẽn đường dẫn khí bên trong phổi mà thường là hồi phục tự nhiên hay do điều trị. Hen suyễn là một bệnh mạn tính - bệnh mạn tính có nghĩa là nó luôn đi theo người bệnh đến …cả cuộc đời.
Hen suyễn là bệnh có tỷ lệ người mắc bệnh khá cao. Lấy ví dụ tại Mỹ, với dân số khoảng 300 triệu người có khoảng 22 triệu người bị hen suyễn, mỗi năm hen suyễn gây ra khoảng 5.000 ca tử vong, 2 triệu lần phải cấp cứu, và 500.000 trường hợp phải nhập viện mỗi năm. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ ước tính người bị hen suyễn là khoảng 5% dân số (khảo sát này được thực hiện bởi TS. Phạm Duy Linh và cộng sự tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch). Với tỷ lệ mắc bệnh cao như vậy, hen suyễn là bệnh gây hậu quả khá nghiêm trọng. Hơn nữa, có bằng chứng ngày càng nhiều là nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, hen suyễn có thể gây suy giảm dài hạn chức năng phổi (còn gọi là suy hô hấp mạn tính).
Hen suyễn là một bệnh lý có hai vấn đề chủ yếu xảy ra bên trong đường dẫn khí của phổi.
•    Co thắt phế quản: các cơ trơn phế quản siết chặt hay thắt chặt lại với nhau. Co thắt phế quản có thể gây cản trở không cho không khí được hít vào hay thở ra qua phế nang phổi.
•    Viêm đường dẫn khí: ở người bị hen suyễn đường dẫn khí của phổi luôn luôn bị viêm, trở nên sưng nhiều hơn và kích ứng khi bắt đầu có cơn hen. Sự sưng này chính là do viêm. Viêm có thể làm giảm lượng không khí mà người bệnh có thể hít vào hay thở ra khỏi phổi. Trong một số trường hợp, các tuyến nhầy trên đường dẫn khí tiết quá nhiều chất nhày đặc, và hệ quả là làm tắt nghẽn đường dẫn khí. Lúc này bệnh nhân có cảm giác ngộp thở dù đang ở nơi đầy không khí.
Sự co thắt và viêm đường dẫn khí đồng thời gây thu hẹp đường dẫn khí, có thể làm thở khò khè, co kéo – cò cữ, thắt chặt lồng ngực (tạo cảm giác “nặng ngực” hay “đau ngực” như một số bệnh nhân mô tả), hoặc thở hổn hển (khó thở). Ở người bị hen suyễn, đường dẫn khí bị viêm ngay cả khi không có những triệu chứng.
Điều gì sẽ xảy ra đối với người bị bệnh suyễn không được kiểm soát? Tiếng rít nghe được khi thở? Ho? Nặng ngực? Khó thở? Đa số những người bị hen suyễn có một hay nhiều hơn những triệu chứng sau:
•    Khò khè: tiếng rít thường nghe được khi thở ra. Tiếng rít này dễ dàng được nhận ra bởi bác sĩ khi khám bệnh hay thậm chí chính bệnh nhân cũng có thể nhận ra. Khò khè nghe như tiếng mèo rên hoặc ngày xưa ông bà ta thường gọi là tiếng “cò cử”.
•    Ho: ho có thể kéo dài và thường hay xảy ra. Ho cũng là dấu hiệu nặng của cơn suyễn ban đêm. Ho rất dễ bị nhầm lẫn với những bệnh khác. Đặc biệt ở Việt Nam, một số bệnh nhân bị ho do hen suyễn dễ được chẩn đoán nhầm là viêm phế quản, viêm họng hay thậm chí được chẩn đoán là ho lao (bản thân người viết đã gặp một số trường hợp người bị hen suyễn chỉ có biểu hiện là ho và đã được điều trị bằng thuốc lao). Một số bệnh nhân bị hen suyễn chỉ có biểu hiện duy nhất là ho, đặc biệt là nửa đêm về sáng.
•    Nặng ngực: cảm giác giống như lồng ngực bị bóp chặt.
•    Khó thở: thở thấy khó khăn, đặc biệt là thở ra.
Điểm cốt yếu của hen suyễn là, ngay cả khi người bệnh không để ý đến nó, viêm đường dẫn khí luôn đồng hành cùng bệnh nhân. Đường dẫn khí bị viêm dù đang có triệu chứng hen suyễn hay không có triệu chứng hen suyễn. Đó là lý do hết sức quan trọng rằng tại sao người bệnh phải điều trị dự phòng hen suyễn hàng ngày – ngay cả khi cảm thấy khỏe – do ngày càng có nhiều bằng chứng chứng minh rằng – nếu không được điều trị, hen suyễn có thể gây suy hô hấp mạn tính.
Nói chung, có hai loại thuốc để điều trị bệnh suyễn – thuốc dự phòng và thuốc cắt cơn nhanh (cũng còn gọi là “thuốc cấp cứu”). Các thuốc dự phòng, như corticosteroid dạng hít, được sử dụng hàng ngày để giảm viêm và ngăn chặn những triệu chứng xảy ra. Các thuốc cắt cơn nhanh được sử dụng để giảm co thắt các cơ trơn đường hô hấp trong cơn hen suyễn.
Dự phòng hen suyễn, ngoài việc dùng thuốc, bệnh nhân cần chú ý đến những thứ có thể gây kích ứng cơn hen suyễn được gọi chung là dị ứng nguyên. Chúng có thể là thực phẩm như bò, gà, đồ biển. Hoặc không phải thực phẩm như khói bụi (đặc biệt là khói thuốc lá), phấn hoa, dị ứng nguyên từ chó mèo, gián, nấm mốc, mạt nhà.
Một số bài thuốc hen suyễn từ thực phẩm

Có một số thực phẩm kích hoạt cơn hen suyễn. Ngược lại, cũng có một số thực phẩm có ích cho hen suyễn. Việc điều trị hen suyễn bằng thuốc theo Tây y, do sử dụng dài hạn, có thể có những tác dụng bất lợi cho cơ thể. Vì thế, ngày nay, kể cả những nước Phương tây, việc điều trị những bệnh mạn tính ngày càng được chú ý nhiều hơn đến những phương thuốc từ cỏ cây, thực phẩm.
Củ gừng. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết dùng gừng như một vị thuốc chống nôn. Gừng, với hoạt chất chính yếu có giá trị trong chống nôn là gingerol (có lẽ vì hoạt chất này mà tên tiếng Anh của Gừng là Ginger). Vị đặc trưng của gừng cũng là do chất gingerol. Ngoài gingerol, trong gừng còn có guineapigileum có hoạt tính kháng hydroxytryptamine giúp chống nôn hiệu quả. Ngày nay, một số nghiên cứu trong ngành thực vật ở Ấn Độ đã thấy gừng có đặc tính kháng viêm giúp ức chế đáp ứng miễn dịch thái quá trong hen suyễn. Hơn nữa, gừng cũng có hoạt tính làm long đàm. Một nghiên cứu được tiến hành trên 92 bệnh nhân bị hen suyễn ở Iran. Bệnh nhân được sử dụng 150 mg bột gừng 3 lần mỗi ngày trong 2 tháng. Sau 2 tháng sử dụng gừng đã có cải thiện đáng kể triệu chứng của hen suyễn là khò khè và nặng ngực. Khò khè giảm 19,5% và nặng ngực giảm 52%.
Mật ong. Mật ong giúp làm loãng chất đàm nhớt trong phế quản và tạo điều kiện dễ dàng để tống xuất đàm nhớt ra ngoài. Như bạn đã biết, chất nhầy của đàm nhớt tích tụ trong phế quản ngăn cản oxy đi vào cũng như ngăn chặn sự đào thải CO2 ra ngoài. Điều này kích hoạt cơn suyễn cấp. Mật ong có thể được sử dụng bằng cách pha trong nước uống hàng ngày (một muỗng cà phê mật ong mỗi ngày) hoặc một muỗng cà phê mật ong pha với nửa muỗng cà phê bột quế uống 1 lần mỗi ngày (sáng hoặc tối). Cách tốt hơn là dùng mật ong pha với nước cốt gừng tươi.

Một số bài thuốc khác từ thực phẩm dùng trong hen suyễn:

•    Dịch tỏi: dịch chiết xuất từ tỏi. Hòa 10 – 15 giọt dịch tỏi trong nước ấm và uống sẽ giúp làm giảm triệu chứng hen suyễn.
•    Húng quế: Cho 30 – 40 lá húng quế vào 1 lít nước uống dần trong ngày.
•    Hỗn hợp: hòa ¼ ly nước cốt củ hành tây, 1 muỗng cà phê mật ong và 1/8 muỗng cà phê tiêu đen.
•    Hỗn hợp: hòa trộn cam thảo và gừng với nhau. Dùng nửa muỗng cà phê hỗn hợp này với 1 ly nước. Không được sử dụng ở người bị tăng huyết áp.
•    Hỗn hợp: pha 1 ly hỗn hợp gồm 2/3 nước ép cà rốt và 1/3 nước ép cải bó xôi (rau bina hay spinach). Ngày 3 lần, mỗi lần dùng 1 ly.
•    Hỗn hợp: nghiền gừng, nghệ, tiêu đen rồi trộn với mật ong cho sền sệt. Mỗi ngày dùng 1 muỗng cà phê hỗn hợp này.

Một số bài thuốc từ thực phẩm của các nước

Tại Anh, si-rô được bào chế từ vài lát củ hành thái mỏng trộn với mật ong dùng 3 – 4 lần mỗi ngày giúp cải thiện tình trạng hen suyễn. Người Anh cũng dùng vỏ và lá cây bạch quả (ginkgo) để làm giảm tình trạng hắt hơi do dị ứng và hen suyễn.
Tại Úc, tinh dầu khuynh diệp được sử dụng để làm giảm các tình trạng khó chịu của hệ hô hấp và hen suyễn. Lá khuynh diệp chứa rutin, một loại bioflavonoid, giúp làm giảm tình trạng viêm của phế quản. Bệnh nhân có thể thở với nước trà nóng có pha tinh dầu khuynh diệp hay uống vài giọt tinh dầu khuynh diệp pha loãng với nước nóng.
Tại Ai Cập, người bị hen suyễn được khuyên ăn quả sung, vả, nho có tác dụng làm giảm hen suyễn.
Tại Trung Hoa, cái nôi của Y học Đông phương khuyên người bị hen suyễn sử dụng lá trà trong việc làm giảm hen suyễn (lá trà có chứa theophylline, một chất có tác dụng làm giãn phế quản). Một cách khác là xào rễ cây ma hoàng với mật ong, sau đó hỗn hợp này trộn với phần cơm quả mơ được một chế phẩm cắt cơn hen suyễn. Vì trong thành phần của rễ cây ma hoàng có ephedrin, pseudoephedrin cho nên không được dùng bài thuốc này cho người bị bệnh tim mạch, tăng huyết áp, người thi đấu thể thao (sẽ cho kết quả dương tính doping).
Tại Hy Lạp & La Mã. Người  Hy Lạp & La Mã cổ xưa đã biết dùng tỏi, tiêu đen, quế và giấm trong điều trị hen suyễn. Những thực phẩm có vị cay và hăng này có thể thúc đẩy sự bài tiết nước trong phế quản, điều này giúp làm sạch chất nhầy bít tắc trong phế quản. Một số thực phẩm khác cũng được dùng rộng rãi như là phương thuốc cổ truyền điều trị hen suyễn: cá nước ngọt, ngò tây, cỏ cà ri, củ cải, bạc hà (loại bạc hà dùng tinh chế ra dầu bạc hà, không phải loại bạc hà nấu canh chua), nho khô, cháo yến mạch. Những thực phẩm này có vai trò kiểm soát hiện tượng viêm trong phế quản do làm loãng chất nhầy, làm giãn phế quản và cải thiện chức năng của hệ hô hấp. Người Hy Lạp cũng khuyến cáo dùng trà được chế biến từ hạt thì là (thì là rất thông dụng ở miền Bắc Việt Nam) có tác dụng bổ phế và giảm triệu chứng hen suyễn. Thì là có chứa rutin, nhiều vitamin và khoáng chất bao gồm calcium và kali.
Một số nước thuộc Châu Âu. Mỗi ngày uống 2 ly cà phê, mỗi ly khoảng 200 mL có tác dụng tốt trên hen suyễn. Điều này được giải thích là trong cà phê có chứa hoạt chất xanthine có tác dụng làm giãn phế quản.
Tổng hợp( intennet)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Tâm sự bạn đọc


Tin Xem Nhiều